Đạo đức tồn tại bên ngoài tôn giáo có tổ chức, và ‘đạo đức’ được giảng dạy bởi nhiều hệ thống cổ xưa này thường bị lỗi thời, phân biệt giới tính, phân biệt chủng tộc và dạy không dung nạp và bất bình đẳng. Khi cha mẹ buộc một đứa trẻ vào tôn giáo, cha mẹ đang chấp nhận hiệu quả con cháu của mình bằng cách hạn chế khả năng của đứa trẻ để đặt câu hỏi cho thế giới xung quanh và đưa ra quyết định sáng suốt. Trẻ em lớn lên trong những điều kiện này sẽ trưởng thành tin rằng tôn giáo của chúng là người duy nhất chính xác, và, trong trường hợp của Kitô giáo, chúng sẽ tin rằng tất cả những người nghi ngờ tính hợp lệ của tôn giáo của chúng sẽ bị đày đọa vĩnh cửu. Môi trường này là một môi trường thường gây ra sự ghét bỏ, thiếu hiểu biết và bạo lực ‘hợp lý’.
Morals do exist outside of organized religion, and the ‘morality’ taught by many of these archaic systems is often outdated, sexist, racist, and teaches intolerance and inequality. When a parent forces a child into a religion, the parent is effectively handicapping his or her own offspring by limiting the abilities of the child to question the world around him or her and make informed decisions. Children raised under these conditions will mature believing that their religion is the only correct one, and, in the case of Christianity, they will believe that all who doubt their religion’s validity will suffer eternal damnation. This environment is one that often breeds hate, ignorance, and ‘justified’ violence.
David G. McAfee, Disproving Christianity and Other Secular Writings