Đối với Mercier, đó là buổi lễ của Thánh lễ đã làm dịu linh hồn của anh ta: Khói ngọt ngào kéo theo từ Censer, tiếng chuông, câu thần chú Latin của linh mục. Ở Warsaw, ông đã tham dự Thánh lễ sớm, tại một nhà thờ nhỏ gần căn hộ, một hoặc hai lần một tháng, thú nhận tội lỗi nghề nghiệp của mình – chẳng hạn – trong các hình thức xiên được cung cấp bởi Nghị định thư Công giáo. Anh ta đã lớn lên một tín đồ không bị xáo trộn, nhưng cuộc chiến đã chấm dứt điều đó. Những gì Chúa có thể cho phép đau khổ và tàn sát như vậy? Nhưng, theo thời gian, anh ta đã tìm thấy sự an ủi trong một vị thần vượt ra ngoài sự hiểu biết và cầu nguyện cho những người anh ta đã mất, cho những người anh ta yêu thương, và để chấm dứt điều ác trên thế giới. – Alan Furst, các điệp viên của Warsaw
For Mercier, it was the ceremony of the mass that eased his soul: the sweetish smoke trailing from the censer, the ringing of the bell, the Latin incantations of the priest. In Warsaw, he attended early mass, at a small church near the apartment, once or twice a month, confessing to his vocational sins – duplicity, for example – in the oblique forms provided by Catholic protocol. He’d grown up an untroubled believer, but the war had put an end to that. What God could permit such misery and slaughter? But, in time, he had found consolation in a God beyond understanding and prayed for those he’d lost, for those he loved, and for an end to evil in the world.” ― Alan Furst, The Spies of Warsaw
Alan Furst, The Spies of Warsaw