Niềm tin luôn được thèm muốn nhất và cần sự khẩn cấp nhất nơi sẽ thiếu; Đối với ý chí, như ảnh hưởng của chỉ huy, là dấu hiệu quyết định của chủ quyền và sức mạnh. Nói cách khác, càng ít người biết cách ra lệnh, người ta càng khẩn cấp, người ta đã thèm muốn ai đó ra lệnh, người chỉ huy nghiêm trọng một vị thần, hoàng tử, đẳng cấp, bác sĩ, người cha confessor, giáo điều, hoặc lương tâm của đảng. Từ điều này có lẽ có thể tập hợp rằng hai tôn giáo thế giới, Phật giáo và Kitô giáo, có thể đã nợ nguồn gốc của họ và trên hết sự lây lan đột ngột của họ đến một sự sụp đổ và bệnh tật to lớn của ý chí. Và đó là những gì thực sự đã xảy ra: cả hai tôn giáo đều gặp phải một tình huống trong đó di chúc đã bị bệnh, tạo ra một nhu cầu đã trở nên tuyệt vọng hoàn toàn đối với một số “bạn sẽ”. Cả hai tôn giáo đều dạy chủ nghĩa cuồng tín trong các thời đại mà ý chí đã trở nên kiệt sức, và do đó họ cung cấp cho vô số người một số hỗ trợ, một khả năng mới sẵn sàng, một số niềm vui sẵn sàng. Đối với sự cuồng tín là “sức mạnh duy nhất của ý chí” mà ngay cả những người yếu đuối và không an toàn cũng có thể được đạt được, là một loại thôi miên của toàn bộ hệ thống của các giác quan và trí tuệ vì lợi ích của sự nuôi dưỡng quá mức (phì đại) của Quan điểm duy nhất và cảm giác rằng từ đó trở thành chiếm ưu thế mà người Kitô hữu gọi là đức tin của mình. Một khi một con người đạt đến niềm tin cơ bản rằng anh ta phải được chỉ huy, anh ta trở thành “một tín đồ.” “, Người ta có thể hình dung ra một niềm vui và sức mạnh tự quyết như vậy, một sự tự do của ý chí [quan niệm này Ý chí “(bí danh, tự chủ) không liên quan đến bất kỳ niềm tin nào vào cái mà Nietzsche gọi là” sự mê tín của ý chí tự do “trong phần 345 (bí danh, miễn trừ hành động của con người từ một chủ nghĩa quyết định phổ quát khác).] Rằng tinh thần sẽ rời khỏi Tất cả niềm tin và mọi mong muốn cho sự chắc chắn, được thực hành trong việc duy trì bản thân trên những sợi dây và khả năng không đáng kể và nhảy múa ngay cả gần Abysses. Một tinh thần như vậy sẽ là sự xuất sắc của tinh thần tự do.
Faith is always coveted most and needed most urgently where will is lacking; for will, as the affect of command, is the decisive sign of sovereignty and strength. In other words, the less one knows how to command, the more urgently one covets someone who commands, who commands severely—a god, prince, class, physician, father confessor, dogma, or party conscience. From this one might perhaps gather that the two world religions, Buddhism and Christianity, may have owed their origin and above all their sudden spread to a tremendous collapse and disease of the will. And that is what actually happened: both religions encountered a situation in which the will had become diseased, giving rise to a demand that had become utterly desperate for some “thou shalt.” Both religions taught fanaticism in ages in which the will had become exhausted, and thus they offered innumerable people some support, a new possibility of willing, some delight in willing. For fanaticism is the only “strength of the will” that even the weak and insecure can be brought to attain, being a sort of hypnotism of the whole system of the senses and the intellect for the benefit of an excessive nourishment (hypertrophy) of a single point of view and feeling that henceforth becomes dominant— which the Christian calls his faith. Once a human being reaches the fundamental conviction that he must be commanded, he becomes “a believer.”Conversely, one could conceive of such a pleasure and power of self-determination, such a freedom of the will [ This conception of “freedom of the will” ( alias, autonomy) does not involve any belief in what Nietzsche called “the superstition of free will” in section 345 ( alias, the exemption of human actions from an otherwise universal determinism).] that the spirit would take leave of all faith and every wish for certainty, being practiced in maintaining himself on insubstantial ropes and possibilities and dancing even near abysses. Such a spirit would be the free spirit par excellence.
Friedrich Nietzsche, The Gay Science