Oppenheimer, bị ám ảnh bởi vai trò hàng đầu của mình trong việc sử dụng vũ khí nguyên tử đầu tiên, chỉ hiểu một khía cạnh của sự thận trọng. Khao khát của anh ta để không làm điều ác tự làm anh ta làm anh ta phải tránh khỏi cái ác của người khác. Người đàn ông thắt nút đau đớn này hy vọng với một vuốt thanh kiếm đạo đức của mình để tự mình thoát khỏi mớ không thể và rõ ràng và đơn giản cho một lần trong đời. Nhưng trở thành Oppenheimer không bao giờ có thể dễ dàng như vậy. Đối với Oppenheimer thể hiện hai trong số những người con người cao nhất, người đàn ông lý thuyết được Aristotle mô tả là giống như Chúa để sống trong tâm trí, giữa những sự thật không thay đổi và là thiên thần của Machiavellian, Giống như trong việc chỉ huy sức mạnh của sự sống và cái chết đối với những người đàn ông khác. Không có người đàn ông lý thuyết nào trước khi Oppenheimer biết sức mạnh của Chúa như vậy. Trong một số khoảnh khắc cao cấp, anh ta tiếp cận sự tinh khiết lý thuyết của Aristotelian sống vì niềm vui khi biết thế giới, bất kể nó có thể chứng minh được gì; Trong một ánh sáng khác, anh ta hồi hộp trước sức mạnh Machiavellian và người phục vụ của nó nổi tiếng; Trái ngược với tâm trạng, anh ta đã chửi rủa mình vì sự đau khổ mà anh ta đã đưa vào thế giới, và đạt được từ bỏ sự khác biệt của mình và chỉ là một người đàn ông khác giữa những người đàn ông. Có lẽ không người đàn ông lý thuyết nào có thể bằng một gánh nặng như vậy: cảm thấy kiến thức như sức mạnh khi tâm trí của một người định hình lại thế giới không thể chối bỏ, để xem ánh sáng của sự thật là tác nhân của một sự hùng vĩ đen tối, không phải là ân sủng mà là thử thách. Sự đau đớn của Oppenheimer xé anh ta từ trên xuống dưới.
Oppenheimer, haunted by his leading role in the first use of atomic weapons, understood only one aspect of prudence. His longing not to do evil himself blinded him to the need to ward off the evil of others. This painfully knotted man hoped with one swipe of his moral sword to rid himself of the impossible tangle and to be clear and simple for once in his life. But being Oppenheimer could never be as easy as that.For Oppenheimer embodied two of the highest human types, the theoretical man described by Aristotle as god-like for living in the mind, among changeless truths, and the paragon of Machiavellian virtue, god-like in commanding the power of life and death over other men. No theoretical man before Oppenheimer had known such lordly power. In certain high moments he approached that Aristotelian theoretical purity which lives for the joys of knowing the world, whatever it might prove to be; in another light he thrilled at that Machiavellian power and its attendant renown; in contrary moods he reviled himself for the suffering he brought into the world, and ached to renounce his distinction and to be merely another man among men. Perhaps no theoretical man can be equal to such a burden: to feel knowledge as power when one’s mind reshapes the world irrevocably, to see the light of truth as the agent of some dark majesty, is not grace but ordeal. Oppenheimer’s agony tore him open from top to bottom.
Algis Valiunas