Sinh ra ở phương Đông, và mặc

Sinh ra ở phương Đông, và mặc quần áo ở dạng phương Đông và hình ảnh, Kinh thánh đi bộ theo cách của tất cả thế giới với đôi chân quen thuộc, và đi vào đất liền sau khi tìm thấy ở khắp mọi nơi. Nó đã học được cách nói bằng hàng trăm ngôn ngữ đến trung tâm của con người. Nó đi vào cung điện để nói với quốc vương rằng ông là người hầu của Đấng tối cao, và vào ngôi nhà để đảm bảo cho nông dân rằng ông là con trai của Thiên Chúa. Trẻ em lắng nghe những câu chuyện của nó với sự ngạc nhiên và thích thú, và những người khôn ngoan suy ngẫm chúng như những dụ ngôn của cuộc sống. Nó có một từ hòa bình cho thời gian nguy hiểm, giờ của bóng tối. Các nhà tiên tri của nó được lặp đi lặp lại trong hội đồng của người dân, và những lời khuyên của nó thì thầm vào tai cô đơn. Người khôn ngoan và tự hào run rẩy trước những cảnh báo của nó, nhưng với những người bị thương và sám hối, nó có giọng nói của người mẹ. Vùng hoang dã và nơi đơn độc đã được thực hiện vui mừng bởi nó, và ngọn lửa trên lò sưởi đã thắp sáng việc đọc các trang mòn của nó. Nó đã dệt chính nó vào những tình cảm sâu sắc nhất của chúng ta và tô màu cho những giấc mơ thân yêu nhất của chúng ta; Vì vậy, tình yêu và tình bạn, sự cảm thông và tận tụy, ký ức và hy vọng, mặc những bộ quần áo tuyệt đẹp của bài phát biểu quý giá, hơi thở của nhũ hương và Myrrh. Phía trên cái nôi và bên cạnh ngôi mộ của nó những lời tuyệt vời của nó đến với chúng tôi chưa được gọi. Họ lấp đầy những lời cầu nguyện của chúng tôi với sức mạnh lớn hơn chúng ta biết, và vẻ đẹp của chúng kéo dài trong tai chúng ta rất lâu sau những bài giảng mà họ đã tô điểm đã bị lãng quên. Họ trở về với chúng tôi nhanh chóng và lặng lẽ, giống như những con chim bay từ xa. Họ làm chúng tôi ngạc nhiên với những ý nghĩa mới, như suối nước vỡ ra từ ngọn núi bên cạnh con đường bị lãng quên từ lâu. Chúng ngày càng phong phú hơn, như ngọc trai làm khi chúng được đeo gần trái tim. Không có người đàn ông nào nghèo hay hoang vắng, người có kho báu này cho riêng mình. Khi cảnh quan tối tăm và người hành hương run rẩy đến thung lũng tên là bóng tối, anh ta không ngại bước vào; Anh ta lấy cây gậy và nhân viên của Kinh thánh trong tay; Anh ấy nói với bạn bè và đồng chí, “Tạm biệt, chúng ta sẽ gặp lại nhau”; Và được an ủi bởi sự hỗ trợ đó, anh đi về phía đường chuyền cô đơn khi một người leo lên bóng tối vào ánh sáng.

Born in the East, and clothed in Oriental form and imagery, the Bible walks the ways of all the world with familiar feet, and enters land after land to find its own everywhere. It has learned to speak in hundreds of languages to the heart of man. It comes into the palace to tell the monarch that he is the servant of the Most High, and into the cottage to assure the peasant that he is the son of God. Children listen to its stories with wonder and delight, and wisemen ponder them as parables of life. It has a word of peace for the time of peril, the hour of darkness. Its oracles are repeated in the assembly of the people, and its counsels whispered in the ear of the lonely. The wise and the proud tremble at its warnings, but to the wounded and penitent it has a mother’s voice. The wilderness and the solitary place have been made glad by it, and the fire on the hearth has lighted the reading of its well-worn pages. It has woven itself into our deepest affections, and colored our dearest dreams; so that love and friendship, sympathy and devotion, memory and hope, put on the beautiful garments of its treasured speech, breathing of frankincense and myrrh. Above the cradle and beside the grave its great words come to us uncalled. They fill our prayers with power larger than we know, and the beauty of them lingers in our ear long after the sermons which they have adorned have been forgotten. They return to us swiftly and quietly, like birds flying from far away. They surprise us with new meanings, like springs of water breaking forth from the mountain beside a long-forgotten path. They grow richer, as pearls do when they are worn near the heart. No man is poor or desolate who has this treasure for his own. When the landscape darkens and the trembling pilgrim comes to the valley named the shadow, he is not afraid to enter; he takes the rod and staff of Scripture in his hand; he says to friend and comrade, “Good-by, we shall meet again”; and comforted by that support, he goes toward the lonely pass as one who climbs through darkness into light.

Henry Van Dyke

Phương châm sống ngắn gọn

Viết một bình luận