Trong lịch sử, những khám phá về khoa học thuần túy rất chậm để đạt được dòng chính so với các ngành khoa học ứng dụng, nơi ồn ào thông báo với các loại thuốc và tiện ích mới. Hubble đã chứng minh một ngoại lệ, làm lại, trong một thế hệ duy nhất, quan niệm phổ biến về vũ trụ. Nó đã hoàn thành điều này chủ yếu thông qua lực lượng thẩm mỹ của những khám phá của nó, trong đó chắt lọc những trừu tượng khó khăn của vật lý thiên văn thành các biểu hiện đơn lẻ của màu sắc và ánh sáng, minh oan cho khớp nối nổi tiếng của Keats: vẻ đẹp là sự thật, vẻ đẹp của sự thật. Mặc dù triết học hầu như không đăng ký nó, nhưng Hubble đã cho chúng ta không có gì khác ngoài một sự thức tỉnh bản thể, một tính toán mạnh mẽ với những gì là. Kính viễn vọng buộc tâm trí phải suy ngẫm về không gian và thời gian trên thang điểm chỉ là vô hạn.
Historically, discoveries of pure science are slow to reach the mainstream compared with those of the applied sciences, which noisily announce themselves with new medicines and gadgets. The Hubble has proved an exception, remaking, in a single generation, the popular conception of the universe. It has accomplished this primarily through the aesthetic force of its discoveries, which distill the difficult abstractions of astrophysics into singular expressions of color and light, vindicating Keats’s famous couplet: “Beauty is truth, truth beauty.” Though philosophy has hardly registered it, the Hubble has given us nothing less than an ontological awakening, a forceful reckoning with what is. The telescope compels the mind to contemplate space and time on a scale just shy of the infinite.
Abhijit Naskar, Neurons, Oxygen & Nanak