Vì vậy, Janie đã đợi một thời gian nở hoa, và một thời gian xanh và thời gian màu cam. Nhưng khi phấn hoa một lần nữa mạ vàng mặt trời và rây xuống thế giới, cô bắt đầu đứng quanh cổng và mong đợi mọi thứ. Điều gì? Cô ấy không biết chính xác. Hơi thở của cô ấy giật và ngắn. Cô biết những điều mà không ai từng nói với cô. Ví dụ, những từ của cây và gió. Cô ấy thường nói chuyện với những hạt giống rơi xuống và nói, ‘Ah hy vọng bạn rơi xuống đất mềm’, vì cô ấy đã nghe thấy những hạt giống nói điều đó với nhau khi họ đi qua. Cô biết thế giới là một con ngựa lăn trên đồng cỏ màu xanh của Ether. Cô biết rằng Chúa xé toạc thế giới cũ mỗi tối và xây dựng một thế giới mới bằng cách mặt trời. Thật tuyệt vời khi thấy nó hình thành với mặt trời và nổi lên từ bụi xám của nó. Những người quen thuộc và mọi thứ đã làm cô thất bại nên cô treo qua cổng và nhìn lên con đường về phía. Bây giờ cô ấy biết rằng hôn nhân không làm tình. Giấc mơ đầu tiên của Janie đã chết, vì vậy cô trở thành một người phụ nữ.
So Janie waited a bloom time, and a green time and an orange time. But when the pollen again gilded the sun and sifted down on the world she began to stand around the gate and expect things. What things? She didn’t know exactly. Her breath was gusty and short. She knew things that nobody had ever told her. For instance, the words of the trees and the wind. She often spoke to falling seeds and said, ‘Ah hope you fall on soft ground,’ because she had heard seeds saying that to each other as they passed. She knew the world was a stallion rolling in the blue pasture of ether. She knew that God tore down the old world every evening and built a new one by sun-up. It was wonderful to see it take form with the sun and emerge from the gray dust of its making. The familiar people and things had failed her so she hung over the gate and looked up the road towards way off. She knew now that marriage did not make love. Janie’s first dream was dead, so she became a woman.
Zora Neale Hurston, Their Eyes Were Watching God