Ý nghĩa: Lễ tạ, lễ hoá vàng hay còn gọi là Tết Khai hạ. Đây chính là ngày làm lễ dâng hương “bế mạc” dịp Tết NGUYÊN đán để mọi người tiếp tục công việc thưòng nhật của mình.
Theo tục xưa để lại thì lễ tạ được tiến hành vào ngày mồng 7 tháng giêng âm lịch.
Theo sách “Phương sóc chiêm thú” thì sở di lễ tạ được tiến hành vào ngày mồng 7 tháng giêng là vì ngày thứ bảy đầu năm mới là “ngày của Người” (Nhân nhật); còn các ngày khác từ mồng 1 Tết Nguyên đến mồng 8 tháng giêng là các ngày của các giống động vật và thực vật:
Mồng 1 là ngày của giống Gà, mồng 2 của giống Chó, mồng 3 của giốhg Lơn, mồng 4 của giông Dê, mồng 5 của giống Trâu, mồng 6 của giông Ngựa và mồng 8 của giống Thóc (lúa).
Vào chiều ngày ấy, ngày nào đẹp trời thì giống thú hay thực vật của ngày ấy sẽ khoẻ mạnh, tot đẹp trong cả năm đó. Hiện nay vẫn có người tin vào những “điềm” báo trước ấy để có những “tiên đoán” cho cả năm.
Ngày nay tuỳ hoàn cảnh cụ thể công việc của mỗi nơi, người ta có thể tiến hành lễ tạ vào các ngày khác như vào mồng 2, mồng 3,… chứ không cứ phải vào mồng 7. Người Việt Nam hiện nay chủ yếu căn cứ vào hoàn cảnh công việc mà làm lễ tạ chứ không câu nệ theo sách xưa.
Ý nghĩa quan trọng lễ tạ của người Việt Nam là ở chỗ: tạ lễ Trời, Đất, Thần, Phật, Gia Tiên… đã về chứng giám cho lòng thành và sự vui vẻ của những người đang sống nhân dịp Tết đầu năm và cầu xin các đấng cao minh, Tiên tổ gia cát, phù trì cho mọi người trong gia đình tiếp tục bước vào cuộc sống may mắn, phát đạt mọi bề suốt cả năm mới.
Với ý nghĩa đó, không có gia đình Việt Nam nào, xưa cũng như nay, đã dâng hương cúng lễ Giao thừa vào sáng mồng 1 Tết mà lại bỏ qua làm lễ dâng hương Khai hạ, thậm chí những người có điều kiện còn tô chức buổi lễ tạ khá lớn, mời họ hàng thân thích, bạn bè cùng đến dự và bàn tính dự kiên công việc đầu năm.
Nét khác biệt trong việc dâng hương vào dịp Tết Nguyên đán so với các dịp lễ, tiết khác trong năm là ỏ chỗ vào suốt dịp Tết Nguyên đán, kể từ lễ Tất niên vào chiều ngày 30 năm cũ, tháng chạp cho tới hết lễ tạ, trên các ban thờ trong nhà hương, đèn (nến) không bao giờ không thắp, ngày cũng như đêm. Các phẩm vật dâng cúng dịp Tết như tiền, vàng (đồ hàng mã), bánh chưng, mứt kẹo, ngũ quả, trầu cau,… cũng chỉ được phép hạ xuông vào sau buổi lễ dâng hương Khai hạ, trừ các lễ cúng mặn không thể để dài ngày như xôi, thịt… thì có thể hạ lễ ngay sau mỗi tuần hương dâng cúng vào các buổi, các ngày trong dịp Tết Nguyên đán.
Sở dĩ phải như vậy vì tục tín ngưỡng cho rằng trong suốt dịp Tết Nguyên đán trước khi làm lễ Khai hạ thì các bậc Thần minh và Gia Tiên luôn luôn ngự trên ban thờ. Nêu để hương, đèn (nến) tắt, tự tiện hạ các phẩm vật trước khi Lễ tạ là bất kính đối với Thần minh và Tiên tổ.
Với ý nghĩa quan trọng của ngày Lễ tạ nên ngày làm Lễ tạ được quan niệm cũng là một cái “Tết” – Tết Khai hạ. Nó quan trọng chẳng kém lễ Giao thừa. Bởi
thế, trước khi dâng hương Lễ tạ, ngày xưa người ta cùng có đốt pháo mừng. Nhiều gia đình tính cẩn thận còn có cả lễ ngoài trời như lễ lúc Giao thừa nữa.
Trước khi hạ toàn bộ phẩm vật dâng cúng trong dịp hết một tuần hương thì trước tiên phải thực hiện việc hoá vàng tiền. Mỗi lễ vàng, tiền dâng cúng đều được hoá riêng theo thứ tự: Gia Thần trước, Gia Tiên sau – từ các bậc cao nhất đến dưới. Trước khi hạ mỗi lễ như vậy đều cần vái ba vái và khấn “Con xin thiêu hoá tiền vàng, quần áo,… thỉnh vong linh nhận chút lễ bạc. Tâm thành, kính cáo Tôn thần, xin rưốc vong linh lại về âm giới”.
Theo tục xưa, khi hoá mã thường có lễ cáo thần “Vũ Lâm sứ giả” để ngài chứng tri cho. Văn khán đọc khi bắt đầu hoá mã, tại ban thò, để xin phép Thần Vũ Lâm sứ giả mục đích tránh quỷ, ma đói khát cưốp quần áo, tiền vàng của tín chủ gửi cho vong. Khi gửi đồ mã cho vong nên ghi vào giấy đầy đủ các đồ hiến cúng và gửi cho ai mộ táng tại đâu. Giông như ta gửi ở trần sao thì âm vậy, phải có tên địa chỉ người gửi, người nhận. Khi hoá mâ xong, nên đọc câu kính xin tôn thần kính rước vong linh về nơi âm giới.
Ngày nay, nhiều người làm ăn, buôn bán, sau lễ tạ đều có kén chọn giờ tốt, ngày tot để khai trương cửa hàng, cửa hiệu.
Sắm lễ: Lễ vật dâng cúng trong lễ tạ năm mới gồm: Hương, hoa, nước, quả (ngũ quả). Trầu cau; Rượu; Đèn, nến; Lễ ngột, bánh kẹo;
Mâm cỗ mặn: xôi, gà, bánh chưng, các món Tết đầy đủ, tinh khiết.
VĂN KHẤN LỄ TẠ
Nam. mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mồ A Di Đà Phật!
– Con kính lạy chín phương Trời, mười phương Chứ Phật, Chư phật mười phương
■ Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy các ngài Đương niên, ngài Bản cảnh Thành hoàng, các ngài Thổ địa, Táo quân, Long Mạch, Tôn thần.
– Con kính lạy các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, nội ngoại Tiên lình.
Tín chủ con (chúng con) là:…………. (đọc rõ họ tên) Trú tại xã (phường)….huyện (quận)….. tỉnh (thành phổ)……
Hôm nay là ngày lễ hóa vàng (tức ngày mồng 3 tháng giêng) năm …………(âm lịch) Tín chủ con thành tám sắp sửa hương hoa nước quả kim ngăn vàng bạc, phẩm vật trà tửu dâng lên trước án, kính cẩn thưa trình:
Tiệc xuân đã mãn, Nguyên đán đã qua, nay xin thiêu hoá kim ngán, lễ tạ Tôn thần, rước tiễn Tiên linh trở về âm giới.
Kính xin phù hộ độ trì cho con cháu được chừ bình an, gia đạo hưng long thịnh vượng Chúng con lễ bạc tâm thành, nhất tăm kính lễ, cúi xin phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mồ A Di Đà Phật!
Ghi chú: Nếu làm lễ hóa vàng vào những ngày khác thì thay ngày mồng 3 tháng giêng vào ngày đó.