Hôm nay là ngày….tháng….năm…..(âm lịch) Nhân tuần chung thất (hoặc bách nhật) Chúng con cùng toàn gia quyến kính sửa: trầu rượu, cỗ bàn dăng lên cha (mẹ), chứng giám cho lòng thành.
Than ôi!
Thân phụ (mẫu) đi đâu, vội vàng chi mấy; Trời cao có thấu, thảm thiết muôn phần thương thay!
Đời người giấc mộng, hình ảnh phù vân; Ngày tựa chim bay, tiết vừa bốn chín (hoặc trăm ngày);
Thoi đưa thấm thoắt nay đã bảy tuần (hoặc trăm ngày).
Cây lặng gió lay, khóc làm sao được; Lưng cơm đĩa muối, gọi chút đền ân.
Xin cha (mẹ) về thượng hưồng.
Cẩn cáo!
* Trường hợp cháu đích tôn cúng ông, bà thì có thể dùng bài sau:
… Than ôi!
Mây bạc xa ngăn cuộc thế, não nùng thảm cảnh, một niềm lo;
Trời xanh nỡ để mối sầu, ngơ ngẩn buồn tình, trăm việc rôĩ.
Ngậm ngùi trong dạ, luông băn khoăn; Sụt sùi bên lòng, thêm nhức nhôĩ.
Tưởng thừa hoan, cảnh muốn còn lâu Song trần mộng, người đà lánh khỏi Than ôi! Ầm dương cách biệt, sông gửi thác về; Mưa gió thảm sầu, sao dời vật đôi.
Ngày qua tháng lại, nầm tuần (hoặc 100 ngày) đọc văn tế tư thân; Thỏ lặn ác tà, chung thất (hoặc tốt khóc), bày lễ nghi theo thói.
Thảm thiết nhẽ! Đi thương về nhớ, bóng tiên linh, đoái thấy những mơ màng; Đau đớn thay! Than vắn thở dài, lòng hậu tự, biết bao chừng cảm dội.
Ngán thay! Cây muốn lặng, gió chẳng đừng, Nén noi! Ngày thêm buồn, đêm lại tủi.
Thôi! Thời thôi!
Người về quê tổ, biết lấy chi báo đức, đền ơn, Con (cháu) ở cõi trần, nguyện cầu được lượng tình, xá tội.
Biết tìm đâu, gót tiêu dao hạc nội mây ngàn; Xin thấu rõ, cảnh bần bạc, lưng cơm đĩa muôi.
Hỡi ơi! Xin hường!