Do đó, mục đích của thiền định, trong bối cảnh đức tin Kitô giáo, không phải là một mục tiêu và rõ ràng là ‘khoa học’ kiến thức về Thiên Chúa chúng ta. Kiến thức của chúng ta về Thiên Chúa nghịch lý là một kiến thức không phải về Ngài như là đối tượng của sự giám sát của chúng ta, mà là chính chúng ta là hoàn toàn phụ thuộc vào sự cứu rỗi và kiến thức thương xót của Ngài về chúng ta. Đó là theo tỷ lệ như chúng ta được biết với Ngài rằng chúng ta thấy bản thể và bản sắc thực sự của chúng ta trong Chúa Kitô. Chúng ta biết Ngài và thông qua chính mình cho đến khi sự thật của Ngài là nguồn gốc của bản thể chúng ta và tình yêu thương xót của Ngài là trái tim của cuộc sống và sự tồn tại của chúng ta. Chúng tôi không có lý do nào khác để tồn tại, ngoại trừ được anh ấy yêu như là người sáng tạo và người cứu chuộc của chúng tôi, và yêu anh ấy trở lại. Không có kiến thức thực sự về Thiên Chúa không bao hàm sự nắm bắt sâu sắc và sự chấp nhận cá nhân thân mật của mối quan hệ sâu sắc này.
Hence the aim of meditation, in the context of Christian faith, is not to arrive at an objective and apparently ‘scientific’ knowledge of God, but to come to know him through the realization that our very being is penetrated with his knowledge and love for us. Our knowledge of God is paradoxically a knowledge not of him as the object of our scrutiny, but of ourselves as utterly dependent on his saving and merciful knowledge of us. It is in proportion as we are known to him that we find our real being and identity in Christ. We know him and through ourselves in so far as his truth is the source of our being and his merciful love is the very heart of our life and existence. We have no other reason for being, except to be loved by him as our Creator and Redeemer, and to love him in return. There is no true knowledge of God that does not imply a profound grasp and an intimate personal acceptance of this profound relationship.
Thomas Merton, Contemplative Prayer