Nếu nhìn vào những gì chúng ta có trong cuộc sống: chúng ta sẽ luôn muốn có thêm.
Nếu nhìn vào những gì chúng ta không có trong cuộc sống, chúng ta sẽ không bao giờ có đủ. -Oprah Winfrey
Tôi luôn biết rằng Mark, chồng tôi, là một ngƣời tốt. Anh là một trong những ngƣời mà ai cũng yêu mến – nam cũng nhƣ nữ. Đám trẻ nhỏ rất mê mẩn anh. Những thú vật cũng ƣa thích anh.
Nhiều năm trời làm lụng gian khổ khiến hai bàn tay anh thô ráp và đầy những vết sẹo. Tuy vậy, cái vuốt ve của anh lúc nào cũng dịu dàng.
Khi chúng tôi đƣa đứa con mới sinh từ bệnh viện về nhà, tôi cúi xuống nhìn gƣơng mặt bé xíu của nó ló ra từ tấm chăn bọc kín, lòng tràn ngập xúc động trƣớc báu vật đƣợc trao – đồng thời, cũng nhận rõ một bổn phận sâu sắc. Tôi sợ mình chƣa có kinh nghiệm chăm sóc đứa bé. Mỗi công việc đều là một thử thách, và tôi sợ mình không thực hiện trọn vẹn.
Mark lúc nào cũng bình tĩnh. Lần đầu tiên tắm rửa cho đứa con trai mới sinh, Mark pha đầy một bồn nƣớc ấm, nhẹ nhàng đu đƣa thằng bé trong lòng bàn tay trái, dịu dàng kỳ cọ thân mình nó bằng bàn tay phải. Khi thằng bé quấy, anh đặt nó lên ngực anh và vỗ về. Mark nói với tôi, nếu cùng hợp sức lại, chúng tôi có thể làm đƣợc bất cứ chuyện gì. Tôi tin lời anh.
Có lần tôi bắt gặp chồng tôi tặng hoa cho một phụ nữ khác. Cô ấy là một phụ nữ có mái tóc vàng đang tiến lại gần anh trong tiệm – khi anh đứng lựa hoa cho tôi. Cô ấy rất vui thích với một bông cẩm chƣớng màu xanh nhạt trên tay. Mẹ cô ấy hoảng hồn trƣớc sự bạo dạn trẻ con này, và bà nói lời xin lỗi. Sau đó, Mark nói với tôi: – Anh phải tặng hoa cho cô ấy, vì cô ấy trùng tên với em.
Tôi cảm thấy lòng mình rất hạnh phúc. Nhƣng trong cuộc sống bận rộn hằng ngày, đôi khi tôi quên nói lên lòng biết on của tôi.
Một sáng Chủ Nhật nọ, chúng tôi đến dự lễ nhà thờ khá sớm vì anh đảm nhận việc chăm sóc sân nhà thờ. Đang đi trên đoạn đƣờng dẫn vào nhà thờ có trồng cây thù du dọc hai bên, một tiếng huýt gió chói tai vang lên làm tôi giật mình. Mark huýt sáo đáp lại. Tiếp theo là một điệu nhạc lảnh lót, Mark cũng đáp lại bằng khúc nhạc ngẫu hứng.
Chúng tôi đi tiếp. Một con chim nhại từ trong ngọn cây thù du bay vọt qua đầu chúng tôi và đáp xuống một ngọn cây khác. Mark huýt sáo lần nữa. Và lập tức từ ngọn cây vang ra một điệu nhạc đáp trả lại. Tôi hỏi: – Nó là bạn của anh à?
Anh trả lời: – ừ. Nó là của bạn anh. – Cả hai quen nhau trong trƣờng hợp nào?
Anh bắt đầu kể: – Em biết anh luôn là ngƣời đến đây sớm nhất vào các buổi sáng, đúng không?
Tôi gật đầu. Mark rất tự hào khi anh mở rộng cánh cửa, bật đèn sáng trƣng, pha sẵn bình cà phê trƣớc khi những ngƣời khác đến. Anh nói tiếp:
– Em còn nhớ đợt không khí lạnh giá cách đây vài tuần không? Anh tìm thấy con vật bé nhỏ nằm trên lề đƣờng gần cánh cửa ra vào. Hoặc nó còn nhỏ quá chƣa biết sợ, hoặc vì nó lạnh quá nên bất chấp ngƣời lạ mặt. Nó để yên cho anh cầm lên, và anh sƣỏi ấm nó trong lòng bàn tay khoảng mƣời phút. Sau khi cảm thấy đủ ấm rồi, nó vỗ cánh bay đi.
Giờ đây, nó thƣờng hót vang chào anh mỗi buổi sáng và nó bầu bạn cùng anh vào những buổi chiều khi anh đến đây xén cỏ.
Mark huýt sáo một lần nữa trƣớc khi mở cánh cửa. Con chim huýt sáo đáp lại rồi bay đi.
Bên trong nhà thờ, chân quỳ trên ghế, tôi nhìn sang ngƣời đàn ông bên cạnh tôi. Hai bàn tay anh – đầy sẹo do nhiều năm làm lụng – đang chắp lại khi cầu nguyện. Tôi thấy hai bàn tay đó đang ấp ủ con chim non run rẩy vì lạnh lẽo. Tôi cũng thấy hai bàn tay đó vuốt ve gò má đứa con trai của chúng tôi cách đây nhiều năm. Tôi biết rất rõ hai bàn tay thô ráp đó – biết cả cái vuốt ve dịu dàng và nồng ấm.
Và tôi thốt lên ba tiếng “cám ơn anh”.