Lễ dâng sao giải hạn vào ngày tết Nguyên Tiêu
.Lý do thờ Nhật thần, Nguyệt thần và Thần sao có thể bắt nguồn từ sự sùng bái tự nhiên của nền văn hoá cổ đại đốỉ với mặt trời, mặt trăng và các vì sao.
Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần trong tôn thần của Đạo giáo, hàm nghĩa của nó là: Nhật là thần đại minh: Là biểu tượng của con trai, được trang sức bằng mặt trời màu vàng, đạo giáo gọi là Nhật cung thái dương để quân hiếu đạo tiên vương hoặc là Nhật cung thái đan viêm quang uất minh thái dương đế quân.
Nguyệt là thần dạ minh: Là biểu tượng của con gái, được trang sức bằng ánh trăng màu trắng. Đạo giáo gọi là Nguyệt cung thái âm hoàng quân hiếu đạo minh vương hoặc là Nguyệt cung hoàng hoa tố diệu nguyên tinh thánh hậu thái âm nguyên quân.
Ngũ tinh xưa: Là uế tinh (tức mộc tinh), chấn tinh (tức thổ tinh), thái bạch tinh (kim tinh), thuỷ tinh hoặc hoả tinh. Ngũ tinh còn gọi là ngũ diệu, cùng với mặt trời, mặt trảng hợp thành thất diệu. Nếu thêm La hầu (thực tinh) và Kế đô (Báo vĩ tinh) hợp thành cửu diệu.
Nếu không tính Nhật, Nguyệt, mà lại thêm Nguyệt bội và Tử khí thì cũng có thể gọi là cửu diệu. Nếu tính cả thảy thì gọi là thập nhất diệu. Trong kinh điển của Đạo giáo thường gọi là đế quân, nguyên quân, chân quân…
Trong số các vì sao tế này, có vì sao đã sốm đi vào lòng người trong tín ngưỡng của dân gian là Tây Phương thái bạch tinh (tức kim tinh). Đây vốn là hành tinh trong thiên thể (là một hành tinh gần trái đất nhất), buổi sốm xuất hiện ở phương Đông gọi là “Khải minh”, buổi chiều xuất hiện ở phương Tây gọi là “Trường canh”, điều này người ta đã biết từ rất sớm.
Cùng với sự xuất hiện của “Tây du ký”, Thái bạch kim tinh là một tinh thể tự nhiên được nhân cách hoá.
Trong “Tây du ký”, Thái bạch kim tinh là một hình tượng thần tiên cao niên lương thiện và nhân từ, trên lưng cõng một góc “sách trời”, lão Thái long cung chức vụ là khâm phái “đặc sứ” của Ngọc Hoàng đại đế. Sau khi Tôn Đại Thánh đắc đạo thành tiên, làm náo động long cung đánh xuống địa phủ, làm cho Long vương, Diêm vương phải tâu với thiên đình, Ngọc Hoàng vô cùng hoảng sợ, định phái thiên binh thiên tướng đi chiêu an “yêu hầu” của Tôn Đại Thánh, Ngọc Đế nghe xong vô cùng mừng rd, bèn ra lệnh cho Thái bạch kim tinh đi trưóc để chiêu an. Nhân vật này được mọi người ca tụng.
Về vấn đề tế sao, trong đạo giáo vẫn tôn sùng ngũ đẩu tinh quân là: Bắc đẩu, Nam đẩu, Đông đẩu, Tây đẩu, Trung đẩu và Tủ vi viên chúng tinh quân, Thiên thị viên chúng tinh quân, Tủ vi ngoại toạ chúng tinh quân, Bắc cực tứ tướng tinh quân, Nhị thập bát tú tinh quân… Trên thế gian còn có thuyết quần tinh chầ‘ Bắc đẩu, Đạo giáo thừa nhận tín ngưởng này, trong Đạo kinh nói: Bắc đẩu rơi xuống là chết, Nam đẩu bay lên là sông, Đông đẩu là chúa âm phủ, Tây đẩu ghi tên. Trung đẩu lớn nhất nên giám sát toàn bộ các vì sao. Con người biết tế sao sẽ được giải thoát tai hoạ, tăng thêm phúc thọ.
Trong các vì sao, vì sao được tôn sùng nhất là Đau Mẫu, cũng chính là Trung thiên phạn khí đẩu Mẫu nguyên quân, Trung thiên Bắc đẩu thất nguyên tinh quân… Trong sách Đạo nói ràng: Ngài là Tử Quang phu nhân, sinh được 9 con, hai con đầu là Thiên hoàng đại đế, Tử vi đại đế. Bảy con sau là: Bắc đẩu thất tinh. Các vì sao đã được nhân hoá, lại truyền cho Đẩu Mẫu sinh ra ánh sáng của trăng của tròi, làm mẹ của chúng tinh Bác đẩu. Đẩu làm phần hồn, thuỷ làm phần tinh, ban phát công đức, trị bệnh.
Nghi thức dâng sao giải hạn
Theo các nhà thuật số thì mỗi năm, mỗi người có một ngôi sao chiếu mệnh như: La hầu, Thổ tú, Thuỷ diệu, Thái bạch, Thái dương, Thái âm, Kế đô, Mộc đức, Vân hán. Trong số các sao đó, có sao mang tính cách tôi, lại có sao mang vận hạn xấu. Xấu thì làm lễ để tiễn, còn tốt thì làm lễ để nghinh đón. Lễ nghinh, tiễn này được tiến hành thường kỳ vào các tháng trong nàm, vào những ngày nhất định.
9 ngôi sao này theo tương truyền cứ sau 9 năm lại luân phiên trở lại ứng vói mỗi một cả nhân. Nhân ngày rằm tháng giêng hoặc trong tháng giêng đầu năm, người ta vẫn tiến hành làm lễ dâng sao giải hạn, có thể ố Chùa (là tốt nhất) hay tại nhà. Cũng theo phong tục thì 9 vì sao này xuất hiện vào ngày, giờ nhất định trong tháng và có hình nhất định, do đó vào ngày nào mà sao nào chiếu thì người ta dâng sao giải hạn sao ấy là tốt nhất, số lượng đèn, nến phải đủ theo tính chất của các sao. Bài vị cũng được thiết lập trên giấy có màu tương ứng vdi ngũ hành của từng sao như sao Thái Dương: bài vị màu vàng, viết trên giấy dó mấy chữ “Nhật cung Thái Dương thiên tử tinh quân” và 12 ngọn đèn (hoặc nến), được bày theo hình của sao.
Sắm lễ: Hoa quả, trầu cau, xôi, oản, trà, vàng tiền. Cúng lễ dâng sao ngày xưa khá cầu kỳ, phải lập đàn tràng tam cấp, trên cúng Trời, Phật, Tiên, Thánh; giữa cúng các vì sao thủ mạng, bậc dưới thì phẩm vật như cháo khoai… cúng bố thí chúng sinh. Ngày nay, thành tâm là chính ”cô’t là ở Tâm”, người ta có thể làm lễ dâng sao ngoài trời, “tâm động quỷ thần tri”.
Lễ nghênh, tiễn được tiến hành thường kỳ vào những ngày nhất định của các tháng trong năm.
Tuy vậy, dù sao nào chiếu mệnh thì vào ngày rằm tháng Giêng, người ta thường làm lễ dâng, sắm đủ phẩm lễ, đủ số lượng các đèn, nến tuỳ theo mỗi sao cần nghênh tiễn.
Bài vị được thiết lập trên giấy, có màu tương ứng với ngũ hành của từng sao.
VĂN KHẤN CÚNG DÂNG SAO GIẢI HẠN
(Nhân ngày Rằm tháng Giêng)
Nam mô A Dì Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô a dì Đà Phật Hôm nay là ngày Rằm tháng Giêng năm…………….
Tín chủ (chúng) con là:……………………………………….
Ngụ tại:………………………………….
Chúng con thành tâm có lời kinh mời: Nhật cung Thái Dương Thiên Tử tinh quân Nam Tào Bắc Đẩu tinh quân Thái Bạch, Thi Tuế tinh quân Bắc cực Tử vi Đại Đức tinh quân Văn Xương Văn Khúc tinh quân Nhị thập Bát Tú, Ngủ Hành tinh quấn La Hầu, Kế Đô tinh quân Giáng lâm trước án, nghe lời mời cẩn tấu: Ngày rằm Nguyên Tiêu, theo lệ trần tục, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả thắp nén tâm hương dâng lên trước án, kính mời các vị lai lâm hâm hường, phù hộ cho toàn gia chúng con luôn luôn mạnh khoẻ, mọi sự bình an, vạn sự tôĩ lành, gia đình hoà thuận, trên bảo dưâì nghe.
Đèn trời sán lạn.
Chiếu thắp cõi trần.
Xin các tinh quân.
Lưu ân lưu phúc.
Lễ tuy mọn bạc.
Lòng thành có dư.
Mệnh uị an cư.
Thân cung khang thái.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!