KHẢO LUẬN VỀ CÁC THÀNH TỐ CỦA KHÍ PHÁCH TRONG NHÂN TƯỚNG HỌC

THẦN, KHÍ, SẮC VÀ KHÍ PHÁCH: KHÍ PHÁCH 

a) Phân biệt tinh thần mạnh yếu

Tinh thần mạnh mẽ là dấu hiệu của Khí phách hoằng đại về mặt nội tâm.

Tướng học Trung Hoa gọi đó là Thần hữu dư: tinh thần yếu kém là chỉ dấu của Khí phách nhỏ hẹp. Trạng thái tinh thần này gọi là Thần bá túc. Trong tướng học, kẻ Thần hữu dư ví như cây tùng cây bá về mùa đông, dù hình thể bộ vị có bị khuyết hãm vẫn không mấy ảnh hưởng Tai hại đến công danh quý thọ, thọ khang. Ngược lại, Thần bất túc thì hình thể có khôi ngô cách mấy cũng khó có thể quyết đoán là sẽ thành đạt hay trường thọ vì cũng tương tự như cây gỗ mục, chỉ có bề ngoài to lón nhưng bên trong đã rã nát.

Bởi vậy, một trong các châm ngôn danh tiếng của tướng học đã được hầu hết các sách tướng xưa nay ghi chép lại đã nói : “Thà hình bất túc mà Thần hữu dư còn hơn là Hình hữu dư mà Thấn bất túc”.

1. Thần hữu dư

– Mắt trong trẻo, mục quang linh hoạt, nhìn người mà ánh Mắt không thiên lệch, vẻ sáng của Mắt rất tự nhiên, có thể thu tang hay phát lộ tùy ý. – Lông Mày dài, đẹp, sáng sủa, tươi mát, phụ họa đúng cách với Mắt. – Cử động Thanh nhã, thuần phác, ung dung tự tại như nước chảy trên sông lớn đổ dồn về biển, không vấp váp – Khi vô sự thì thần thái thư thả, nhàn hạ như hạc dạo chơi đồng dã, khi hữu sự thì hùng dũng như mảnh hổ sơn lâm, không thất Sắc, Khí thế hiên ngang, mọi sự biến chuyển dồn dập nguy nan trước Mắt không làm thay đổi tâm tính.

Có được các điều kể trên mới được kể là Thần hữu dư.

2. Thần bất túc

– Trông Sắc diện như say mà không phải say. Trông như có bệnh mà vô bệnh, Mắt lờ đờ như ngái ngủ.

– Không có gì đáng vui mà Sắc mặt hớn hở, không có gì đáng kinh nghi ma lại hốt hoảng tự nhiên, vui giận thất thường. – Sắc diện mới trông qua thấy có vẻ sang sủa nhưng nhìn kĩ thì thấy tối ám.

– Khi trò chuyện, đầu câu nói rất nhanh nhưng cuối câu lại rất chậm như Mũi tên hết đà bắn. Hay trước chậm mà cuối câu lại quá nhanh thành ra nuốt tiếng khiến người nghe không hiểu được trọn vẹn câu nói đó… Tất cả những sự kiện đó đểu là những ngoại biểu của thần Khí thiếu thốn, vấp váp vào những điều trên thì gọi là Thần bất túc.

b) Phân biệt các thái độ một cách tổng quát :

Con người có nhiều thái độ, mỗi thái độ tượng trưng cho cá nhân có tính đặc thù của mỗi hạng người, nhìn qua có thể dựa vào đó mà suy ra Khí phách.

1- Thái độ ổn trọng: hình thể tỏa ra việc chắc chắn độ lương, rộng rãi, cử chỉ ung dung như thuyền lớn trên dòng nước không giao động.

2- Thái độ khinh phù: độ lượng nhỏ hẹp, buồn vui hiện rõ trên nét mặt, khi nói thì thân hình xiên, xiêu vẹo, tay chân run rẩy, nhãn quang giao động, tư tưởng bất nhất, đứng ngồi lệch thệch.

3- Thái độ cuồng phóng: việc gì dù trong hoàn cảnh nào cũng có ý nương dựa vào người tình cảm ủy mị.

4- Thái độ nhu nhược: trang phục cẩu thả, muốn sao làm vậy, coi kẻ xung quanh như không có.

5- Thái độ sớ lại : đứng ngồi, cử chỉ nghênh ngang, vênh váo như muốn hỏi thì thôi, muốn đáp thì đáp. Không đợi người ta có thuận ý hay không.

6- Thái độ chu toàn: y phục chỉnh tề trang nhã ngôn ngữ cẩn trọng, cân nhắc, hỏi thì lựa lời, chăm chú quan sát kẻ đối thoại, yêu tốt ghét xấu, không xu nịnh.

Thái độ biểu lộ tâm hồn con người Kẻ không kiêu ngạo vì hơn người, yếu thế mà không xu nịnh, ỷ lại vào người khác, hào sảng mà lại không xa cách thế nhân, ghành sự đắn đo, cân nhắc hậu quả hơn thiệt mà thực tâm với người, việc gì đã nhận thì cố hoàn thành đến tận nơi là kẻ có tài đức, Khí phách hoằng dại.

Nghe lời nói chưa thực sự mãn ý mà lại vội vã khen ngợi nồng nhiệt, chưa biết rõ điểm tốt hay xấu của người mà vội chê bai không biết ngượng Miệng, kiến thức nông cạn mà lại tò ra thông thái hơn người là kẻ tài trí, Khí phách thô thiển. Xét việc chưa hết lẽ, (cùng kì lý) không khách quan, không phân biệt phải trải, trái, khách quan, việc khó khăn xảy tới thì lýnh quýnh mất bình tĩnhthấy sự thương tâm nhỏ bé của người đời mà mủi lòng, thương hay rơi lệ là Khí phách nữ nhi.

Kẻ có Khí phách thô thiển, đê tiện, hay nữ nhi là loại người tầm thường, kẻ như thế khi gập khó khăn thường biến tiết đổi lòng, nên ít khi làm đại sự.

Thảng hay có may mắn mà hưởng được may mắn phú quí nhất thời tìh kết quả chung cục không có ra gì. Trái lại, thường gặp niểm nguy không sợ, đói khổ không làm đổi tiết tháo, chưa gặp thời mà bị kẻ dung tục coi thường vẫn không oán giận thấu xương. Có lương dung người, tinh thần lúc nào cũng Thanh thản, an nhiên là kẻ Khí phách phi phàm, có đởm lượng của bậc đại trượng phu, dù tiền vận có bị trầm kha cách mấy, kết cục cũng có ngày đại phát.

c) Nhận định Khí phách qua sự quan sát một số động tác của con người :

Động tác và cử chỉ của con người rất nhiều, quan sát những động tác tự nhiên thành tính của con người như bước chân, giọng nói, cách cười cử chỉ lúc đàm thoại… đều giúp ta biết được Khí phách con người đối diện ra sao

1- Cách thức cất bước và dáng đi :

– Chân đi chữ nha là người có đầu óc bảo thủ, phản ứng chậm, ưa điều hư nghị, thích làm ẩu nhưng rất trọng tình cảm, có óc văn nghệ

– Chân hình chữ bát (hay là vòng kiền) là kẻ ưa thích khoa trương, thích bợ đỡ người khác, tí nh tuỳ tiện nhưng tư chất thông tuệ, có óc tiến thủ rất nhanh. Thường thành công trong đường đời.

– Bước chân ngắn là biểu hiện của tính dục mạnh, tình cảm phong phú nhưng lý trí bạc nhược không có óc tiến thủ.

– Bước chân dài là biểu hiện lý trí tình cảm đầy đủ, cân xứng, tính tình khoan hậu, ngay thẳng không gian lận, nhưng thích khoe khoang, không chịu nhân nhượng kẻ khác. Người loại này rất có thể tiến triển.

– Bước đi gấp thể hiện tính nóng nảy, ưa hoạt động cá nhân, thích kiếm tiền hơn là nghệ thuật nhưng rất công bình.

– Đi kéo lê bước chân là kẻ có tâm hồn uỷ mị, Khí lượng hẹp hòi thiếu cương nghị, và tinh thần trách nhiệm, tham vật chất, tham sinh uý tử.

– Bước hàng một, người thẳng là kẻ coi thường sinh tử kiến nghĩa dũng vĩ côi thường tiền bạc, rất chung thủy nhưng hành động hấp tấp, vọng động.

– Bước đi thân hình lao về phía trước là kẻ có nghị lực, dám làm, có tinh thần mã thượng nhưng trí tuệ không hoàn hảo biết suy nghị kĩ trước khi hành động, quyết đoán mau lẹ nhưng hay lẫn và mau quên

– Bước chân đi mà khoảng cách không đều là kẻ hồ đồ, không có thành tín, chỉ thích những diều hào nhoáng bên ngoài, lý trí bạc nhược.

– Chân bước đi hàng 2 là kẻ tính tình thẳng thắng, nhưng kiêu ngạo háo danh, ưa đao to búa lớn, tinh thần khảng khái, nhưng thiếu tự tin.

– Đi mà co giò hất cẳng cao khỏi mặt đất như bước chân hạc là kẻ tính tình đam bạc, thích cô độc, đầu óc giản dị nhưng có biệt tài về mộ nghề nào đó, không thích hoạt động tích cực.

– Dáng đi thân hình đánh đòng đưa như loài ngan, vịt là thể hiện tính nết thô lậu, thích hư vinh, cảm tình hời hợt, đối với kim tiền rất ưa chuộng, tính toán, đối với bạn bè không được thực tình, luôn luôn giữ miếng.

– Trong khi đi mà phần thân dưới(từ bụng đến mông) hơi dao động chút ít là kẻ tính nết ôn hòa, lạc quan, không gặp chuyện rắc rối, rất nhẫn nại.

– Khi đi bước chân nhẹ nhàng, nhanh nhẹn nhưng khoảng cách giữa các bước chân đều đặn, ngắn là dấu hiệu của kẻ chuộng thực tế, làm việc có tiết độ. Theo tác giả Mạng tướng học giảng tọa kẻ có tướng đi như trên rất ưa thích Văn nghệ, Âm Nhạc.

– Bước đi đều đặn, khoảng cách dài, cẳng không quá co như cẳng hạc, chân tới trước thân hình tới sau mà vẫn thẳng không nghiêng lệch là kẻ có tính tự phụ, có tài năng hơn người, hành sự quyết đoán chính xác mau lẹ nhưng không ưa rang buộc, không thích tuân theo kỉ luật rườm rà rắc rối, trong hôn nhân không ưa trói buộc, đối xử với người có thành tín.

– Bước chân đi nhẹ nhàng, bình thản đều đặn, không dài hay ngắn là kẻ giữ được mức bình thường giữa ý, chí, lực.

– Lúc đi có thói quen thọc tay vào túi quần, đầu hơi cúi về phía trước, là kẻ tính nết thâm hiểm, tâm tính khinh bạt, có mới nới cũ.

Trên đây là những kết quả của những nhà phân tích tâm lý hiện tại về dáng đi con người đã được các nhà tướng học hiện tại Trung hoa, Nhật mô phỏng thích ứng hóa với cá tính cúa các dân tộc Á đông, chịu ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa Trung Hoa như Việt Nam, Cao Ly. . .

2- Giọng cười và cách cười :

Các nhà tâm lý học ngày nay đều công nhận rằng trong lúc bất ngờ, phản ứng của con người là ngoại biểu trung thực của tâm tính. Giọng cười, cách cười là 1 trong các loại ngoại biểu kể trên, được các nhà tâm lý gia hiện đại hết sức nghiên cứu. Trong tướng học Trung hoa, cổ cũng như kim, sự nghiên cứu tiếng nói giọng cưới rất được trọng thị.

Trong cuốn tướng pháp Thủy kính tập tác giả đã để nguyên 1 chuơng quan trong luận vế Âm điệu và cho là kẻ xem tướng tới bậc thượng thừa chỉ cần chú ý tới Âm Thanh của người trước mặt cũng đủ ước tính sự vinh nhục, thọ yểu. Cũng theo chiều hướng đó, các nhà tướng học Trung hoa hiện tại như Nhất Ngạc cư sĩ, Nghiễn Nông cư sĩ đã tham khảo thêm công trình nghiên cứu của các tâm lý gia Tây phương, Nhật để đi tới kết quả sau :

– Cười ha hả thật lớn tiếng, tục gọi là cuồng tiếu. Lúc cười thân thể rung động, đầu cúi xuống ngần lên không ngừng cho tới khi dứi tiếng cười mới thôi. Người như vậy là đại quan, (nhãn quang rộng rãi, không chấp tiểu tiết)khảng khái, tự tin, nghị lực ý chí mạnh mẽ.

– Cười nhếch mép không thành tiếng, cả thân hình rung động là kẻ tính tình thâm trầm, làm gì cũng có ý tự tư tự lợi, dễ xung quanh hoàn cảnh nên dễ thành công trong công việc.

– Cười gượng thành tiếng Thanh Âm không tự nhiên, không có Âm lượng vì lời nói phát ra từ chót lưỡi đầu mội. Chứ không phải xuất phát từ trong lòng.

Người rành Âm Thanh có thể phân biệt được tính cách miễn cưỡng trong giọng cười này. Đặc tính nội tâm là kẻ nhu nhược, không ưa giao tế, sợ bị người ngoài chú ý, có tính tự ti mặc cảm rất mạnh, nhưng rất nhiều khát vọng ngầm.

– Cười hì hì như kẻ không muốn cười, nhưng cố nén không dược nên phát ra Âm Thanh nhỏ. Liên tục. Loại này biểu hiện tính trầm mặc, hành động đắn đo tính toán, không muốn có sự cộng tác khi mưu việc với người khác.

– Cười ha hả tự nhiên không miễn cưỡng cố nén tiếng cười vang dội thể hiện cao hứng tự nhiên. Người này mọi phương diện đều phát triển đều, đức hạnh cao thượng, cử chỉ đường hoàng, không nịnh trên nạt dưới, dễ thân cận với người xung quanh.

Về cách cười, còn phân biệt cười lả tã cầu tài, cười gượng (cười khổ: gặp việc quá khổ không htích nhưng phải cười), cười nụ, cười bằng ánh Mắt, miễn cưỡng tự nhiên… Người sành quan sát khuôn mặ phân ích tâm lý có thể tìm thấy qua cách cười các ưu khuyết điểm về phấm cách của người đó.

3- Cử chỉ lúc đàm thoại:

Về mặt sử dụng ngôn từ, ta thấy kẻ trầm mặc ít nói, kẻ nói huyên thuyên không lúc nào dứt, có người lại hay châm chọc, hài hước, người thì nghĩ sao nói vậy… Thiên hình vạn trạng khó có thể ghi nhận phân tích hềt. Tuy nhiên kẻ giỏi xem tuớng quan sát kẻ đối thoại nói năng có thứ tự lý đoán được kẻ tâm thần ổn cố, tính nết ôn hòa. Ngược lại, kẻ nói hấp tấp không đầu đuôi là kẻ tính bạt tháo, khó có thể tin cậy giao phó việc quan trong.
Ngôn ngữ là 1 phần tư tưởng được diễn bằng Âm Thanh và Sắc diện, dù kẻ nói cố ý che giấu cũng không thể che giấu được. – Kẻ đối diện với ta khi nói chuện hay xoa tay vài nhau hay múa tay là thiếu thành tâm, thiếu tin tuởng ở ta. – Kẻ nói chuyện thương hay ngước Mắt lên là tự ti quá cao, tự kỉ đôi khi là kẻ có mưu mô. – Trong lúc nói mà nhìn phải, trước sau thì là có tâm tính ác hiểm. – Kẻ thường hay nhắm Mắt khi nói là ưa nói điều hư ngụy – Khi nói chuyện nhìn lén, liếc xéo người ta là kẻ trí trá, ưa quuỷ kkế đa đoan, tâm tính không thực.

– Kẻ hay cúi đầu khi nói mà thấy rõ tia Mắt nhướng lên là kẻ thích khoa trương cái tôi của mình, với người khác thì khắc bạc.

Viết một bình luận